Ngày nay có rất nhiều người phải làm những công việc mà mình không hề thích thú mà không có lựa chọn nào khác. Nếu là bạn thì sẽ làm gì trong hoàng cảnh này
Theo một khảo sát của tổ chức nghiên cứu The Conference Board (Mỹ) tiến hành gần đây sở hữu 5.000 hộ gia đình ở Mỹ, chỉ sở hữu 45% người được hỏi chấp nhận với công viêc của họ so mang 60% khi cuộc khảo sát này được tiến hành lần thứ 1 vào năm 1987. Áp lực từ cuộc sống, môi trường và từ chính bản thân làm cho ngày một có phổ biến người gặp bắt buộc tình huống như trên, không phải loại trừ những người đang thành công và nắm giữ những vị trí cao trong tổ chức.
tại sao cần phải có động lực?
Một trong những chi tiết quan yếu nhất để đạt được thành công đó là sự mê say và mê say các gì mình khiến. Lúc yêu thích chúng ta chẳng nên buộc phải cố tạo ra động lực, mà trùng hợp đam mê khiến việc mình muốn khiến. Vấn đề của nhiều người thành công ở đây là vì quá mê say những gì mình muốn làm cho, họ bỏ không để ý, đôi khi là những điều không kém phần quan trọng trong đời mình, như sức khoẻ, niềm vui của bản thân, gia đình và những mối quan hệ… một vấn đề nữa là thỉnh thoảng họ áp đặt nghĩ suy của mình cho nhân viên và không thể hiểu được vì sao viên chức của mình lại nông cạn, tiêu cực như vậy, hay nói 1 phương pháp khác là họ không biết làm thế nào để với thể truyền lửa cho nhân viên.
Kết quả là sở hữu phổ biến người bỏ cuộc mang suy nghĩ: nhân viên của mình cứ làm cho hết trách nhiệm, theo đúng đề nghị, vậy cũng may lắm rồi. Đây là 1 điều thực sự đáng nuối tiếc vì nó khiến mất cơ hội tạo ra niềm vui và ý nghĩa trong công việc cho nhân viên, làm giảm đáng kể hiệu suất công tác. Theo thống kê của tạp chí Harvard Business Review (Mỹ), hơn 500 nghiên cứu đã chỉ ra một quan hệ tương đồng giữa động lực và kết quả công việc: 1 người làm việc mang động lực rõ ràng và mạnh mẽ thì kết quả và chất lượng công tác cũng tốt hơn đa dạng, và trái lại.
Thế nào là động lực?
Trong giai đoạn khiến cho khai vấn, tôi phát hiện ra một điều là có đa số người băn khoăn về việc mình không phải với động lực, và họ nghĩ sở hữu động lực đồng nghĩa mang việc buộc phải cảm thấy phấn khởi, thích thú, yêu thích. Sai trái là ở ấy. Theo Daniel Goleman, người đã giúp thế giới biết tới khái niệm trí óc Cảm xúc (EQ) thì khả năng tự tạo ra động lực là 1 kỹ năng, đồng thời là một khía cạnh quan trọng của EQ, và “bốn yếu tố tạo buộc phải động lực ấy là: tìm mọi cách cá nhân để cải thiện và đạt được mục tiêu; cam kết với các mục tiêu của mình; chủ động, hoặc sẵn sàng hành động khi với cơ hội; sự lạc quan và khả năng hồi phục.”
Động lực là một kỹ năng mang thể học hỏi và vững mạnh được trong EQ – chi tiết chủ chốt quyết định thành công trong công việc và cuộc sống của mỗi người. Các người với chỉ số EQ cao sở hữu khả năng tự tạo động lực và cảm hứng để khiến việc chứ chẳng phải chờ đến lúc gặp được hoàn cảnh, con người, cảnh huống, công việc thích hợp. Động lực xuất hiện lúc chúng ta hành động, kết quả của công tác giúp nâng cao sự tự tin của chúng ta vào khả năng của mình, và nâng cao tính cam kết thực hành hành động.
Có những kiểu động lực nào?
Con người sẽ được tương tác hành động bởi hai kiểu động lực: 1 là động lực hướng tới mục đích, kết quả và niềm vui đem lại bởi kết quả đó; hai là động lực tránh né những hậu quả tiêu cực sở hữu thể xảy ra nếu không phải đạt được mục đích.
Động lực hướng đến mục tiêu dễ dàng được sắm thấy ở những người với tham vọng, mang chí tiến thủ. Đây là tuýp người mà lúc tôi chỉ cần giúp họ hình dung ra bản thân họ trong bức tranh tươi đẹp trong mai sau (đã đạt được mục đích của mình), họ ngay lập tức biết mình nên phải làm cho gì và không phải ngần ngại xắn tay vào hành động. Điều mà họ cần tôi tương trợ ấy là giữ được sự thăng bằng, hạn chế bị mắc vào chiếc bẫy “ám ảnh bởi mục tiêu” và bắt buộc trả giá sau khi đạt được mục tiêu của mình.
Động lực tránh né những hậu quả thụ động sở hữu thể được hiểu là khi chúng ta hành động vì 1 người mà mình quan tâm; chúng ta khiến để không còn bị cảm giác hồi hộp, lo lắng; hay làm cho để khỏi nên lo nghĩ về nó nữa… Trong cuộc sống hàng ngày hoặc ở cơ quan, mang rộng rãi việc bạn không thích nhưng vẫn bắt buộc khiến cho. Ví như bạn chủ động tậu ra ý nghĩa, mục đích và lý do làm cho bạn bắt tay vào công tác, thì đấy chính là tạo động lực. Tay chân vào tính cách của mỗi người và thỉnh thoảng là bản tính của công tác ở từng thời khắc, chọn ra được những động lực thực sự sẽ đóng vai trò đòn bẩy, giúp chúng ta tăng tính cam kết hành động để đạt được mục tiêu.
Cái gì lấy mất mất động lực?
Để tạo ra động lực, chúng ta cũng cần chọn hiểu điều gì làm cho con người mất động lực, tỉ dụ như nhân viên không phải hết lòng, mất lòng tin vào đối tác, quá phổ biến đối thủ khó khăn, công đoạn thay đổi diễn ra liên tục? Mang nhóm duyên cớ xuất xứ từ các yếu tố bên ngoài như nêu trên thì câu hỏi bạn cần buộc phải đặt ra cho mình là “tôi đã làm cho hết sức mình để cải thiện hoàn cảnh chưa”? Ví như bạn đã khiến khôn xiết mình và không đổi thay được tình hình, thì bạn có hai chọn lựa, 1 là đổi thay hoặc dòng bỏ, hai là chấp nhận.
Vấn đề mất động lực hoặc thiếu động lực ở đây xuất xứ từ nghĩ suy, thái độ của chúng ta chứ không còn buộc phải từ hoàn cảnh nữa. Chúng ta không thay đổi được tình cảnh, nhưng cũng không phải chịu bằng lòng tình cảnh, cảnh huống và con người quanh đó mình, từ ấy những nghĩ suy và cảm xúc thụ động tiếp tục nảy sinh. Đại đa số chúng ta thường phấn đấu đổi thay hoàn cảnh và người khác, nhưng lại không chịu thay đổi chính mình – hay nói xác thực hơn là thay đổi nghĩ suy và thái độ của mình.
Trái lại, trường hợp chúng ta học phương pháp chấp ưng ý cảnh ngộ, tìm ra mục tiêu và lý do để mình buộc phải bắt buộc làm việc đó, vào thời khắc ấy, suy nghĩ của chúng ta không còn hướng tới việc trách cứ, đổ lỗi, cáu giận… thay vào ấy là nhận bổn phận về mình vì đó là chọn lọc của mình. Chúng ta đã chuyển từ tâm lý nạn nhân sang tâm lý của một người làm chủ.
làm cho sao để tạo ra động lực?
Một công thức siêu đơn thuần nhưng siêu quan trọng để tạo ra động lực là: hoàn cảnh + hài lòng = suy nghĩ và cảm xúc tích cực.
Sự ưng ý ở đây không đồng nghĩa là tránh né, buông xuôi hay vô trách nhiệm. Nó chỉ mang ý nghĩa sau khi chúng ta đã nỗ lực khôn cùng với thể để thay đổi hoàn cảnh; là tự nhận trách nhiệm về mình và đổi thay suy nghĩ, thái độ và sự kỳ vọng của bản thân mình. Điều xuất sắc là lúc nhận bổn phận về mình, tự nhiên chúng ta lại nhìn ra vô số bí quyết giúp thay đổi tình huống và làm cho mình vui vẻ, chấp nhận hơn, hầu hết việc chuyển biến theo 1 hướng hăng hái hơn, thậm chí hơn cả mong chờ.
Đây cũng là câu chuyện từ 1 “coachee” (người được khai vấn) của tôi. Cô là trưởng bộ phận marketing của một nhà hàng bắt mắt với tiếng ở Việt Nam. Sau 4 năm chịu cất căng thẳng trong quan hệ với gia đình chồng, cô quyết định sẽ ra ở riêng mặc sự can ngăn của chồng. Trong buổi khai vấn thứ 1, cô nhận ra là mình đã lánh né vấn đề trong nhiều năm bằng bí quyết lao vào công việc. Cô đổ lỗi cho người khác và không phải chịu hài lòng sự khác biệt của họ. Nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra lúc cô quyết định sẽ đối mặt mang vấn đề, thư đổi thay hoàn cảnh 1 lần cuối trước khi quyết định chuyển ra ngoại trừ.
Cô học cách bằng lòng, tập trung vào đổi thay những gì mình mang thể đổi thay, cụ thể là thái độ và cách ứng xử. Sau đúng 3 tháng khai vấn, quan hệ của cô với gia đình chồng hoàn toàn được toá gỡ, cô cảm thấy siêu hạnh phúc và vui vẻ lúc ở nhà. Bầu không khí hăng hái trong gia đình cũng khiến tính cách của cô mềm mại hơn, cô trở thành 1 người sếp vui vẻ, thấu hiểu và nhẹ nhàng hơn đông đảo trong công việc!
Câu nhắc của Dale Carnegie trong cuốn sách Quẳng gánh lo đi mà sống, rằng: “Nếu số mệnh chỉ cho ta một quả chanh, hãy tìm mọi cách pha thành ly nước chanh” là tỉ dụ của việc học bí quyết chấp nhận (một bí quyết tích cực) để tự tạo động lực cho mình. Và điều tôi có thể bảo đảm sở hữu khách hàng là lúc bạn thay đổi, thế giới xung quanh bạn sẽ thay đổi.
làm sao để biến động lực thành hành động?
Thuyết phục được bản thân mình là chưa đủ. Để biến động lực thành hành động cần phải có một kế hoạch hành động. Bên cạnh đó kế hoạch để khiến cho những việc mình không thích không phải buộc phải quá lớn, vì nó sẽ khiến cho chúng ta cảm thấy chán chường hơn nữa. Dưới đây là 1 số gợi ý của Elizabeth Grace, một chuyên gia khai vấn, về quản lý thời gian để quý khách tham khảo:
• Chọn ít nhất 1 người đồng hành, giao một phần việc cho người khác, lập nhóm cùng làm, hoặc nhận nghĩa vụ có ai đó. Cảm giác có 1 người đang khiến cho việc cộng mình, hoặc làm mình cần chịu bổn phận (thay vì chúng ta tự chịu nghĩa vụ có chính mình) là một kiểu sức ép xã hội hăng hái sẽ giúp chúng ta mang động lực hoàn thành công tác rẻ hơn.
• Làm cho việc khó/không mấy hứng thú trong 1 môi trường tạo cảm hứng, tỉ dụ hoàn thành một bài trình thuyết trình hoặc 1 bài viết ở 1 quán cafe yêu thích; vừa quét dọn nhà cửa vừa nghe nhạc,…
• Thiết lập 1 hệ thống buộc mình vào kỷ luật, thí dụ mỗi ngày dành ít nhất 10 phút để viết sách sau đó có thể quyết định làm cho tiếp hay thôi; mỗi tuần nên hoàn tất 1 việc thúc đẩy đến hoàn thiện hệ thống quản lý khách hàng; hoàn thành một việc đơn điệu trước khi làm 1 viêc đòi hỏi sự giao hội.
Động lực xuất xứ từ bên trong mỗi cá nhân, chứ chẳng phải từ ngoại cảnh. Đó là lý do tại sao rộng rãi nhà quản lý, lãnh đạo gặp cạnh tranh trong việc tạo ra động lực cho nhân viên của mình. Mua ra động lực cũng giống như việc chúng ta làm cho đất, bón phân, chuẩn bị thật chu đáo trước khi gieo trồng để bảo đảm 1 vụ mùa bội thu. Để tạo ra động lực, còn cần bắt buộc hiểu điều gì khiến con người mất động lực, điều gì thực sự quan yếu mang chúng ta. Mang mỗi cá nhân, ưng ý và nhận trách nhiệm đổi thay về mình là điều quan trọng nhất. Những hành động và thay đổi nhỏ
được làm một cách có tinh thần sẽ giúp tạo ra hứng thú và động lực để đạt được mục đích lâu dài.